“Thiên hạ
kungfu xuất Thiếu Lâm”, có lẽ không phải chờ đến
những tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, Cổ Long, Thiếu
Lâm Tự mới được biết đến như là một Thái Sơn Bắc Đẩu của
võ lâm trung nguyên.
Trên thực tế, kungfu Thiếu Lâm chính là hình ảnh đại
diện của nền võ học Trung Hoa, là cơ sở cho võ công của
nhiều môn phái khác, và do đó cũng là phần cơ bản nhất
tạo nên môn võ Wushu mà người Trung Quốc tự hào đem ra
giới thiệu với thế giới dưới tư cách một phần tinh túy
nhất trong truyền thống võ học của mình.
Cùng với thời gian, đặc biệt dưới ảnh hưởng của các tiểu
thuyết, phim ảnh võ hiệp, kungfu Thiếu Lâm Tự trong mắt
chúng ta ngày càng nhuốm màu sắc huyền bí và kì ảo.
Nhưng điều thú vị là ở chỗ, những gì còn lại đến hôm nay
của võ học Thiếu Lâm đủ để chúng ta tin rằng những điều
truyền tụng không phải không có cơ sở. Người hâm mộ hẳn
đều hơn một lần tự hỏi: Có thật là dưới gầm trời này,
trong thế giới thực tại này vẫn tồn tại một không gian
võ học cao minh, bí ẩn của ngàn năm trước? Và phải chăng
những bí kíp Dịch cân kinh, Tẩy tủy kinh... vẫn
nằm yên trong Tàng Kinh
các một
ngày nào đó sẽ lại tái xuất giang hồ và gây cơn sóng gió,
như chúng đã từng gây ra trong quá khứ? VTC News xin
trân trọng đăng tải loạt bài viết thú vị về huyền thoại
của môn võ lừng danh thế giới này...
KÌ 1: TỪ ĐẠT MA SƯ TỔ ĐẾN TRUNG NGUYÊN THÁI SƠN
BẮC ĐẨU
Ở
Trung Quốc hiện nay có đến 10 ngôi chùa mang danh Thiếu
Lâm. Tuy nhiên, Thiếu Lâm được nhắc đến trong tiểu
thuyết Kim Dung, Cổ Long, cái nôi của thiền tông và võ
thuật Trung Hoa là Thiếu Lâm Tung Sơn, thuộc tỉnh Hà
Nam, Trung Quốc ngày nay, cách thủ đô Bắc Kinh chừng
600km về phía Nam. Chùa xây dựng trong khu rừng trên
đỉnh núi Thiếu Thất thuộc dãy Tung Sơn, nên được gọi là
“Thiếu Lâm”.
Tung Sơn thắng địa
Dãy núi Tung Sơn.
Dãy
núi Tung Sơn là một trong Ngũ Nhạc - một trong 5 dãy núi
lớn và danh tiếng nhất Trung Hoa, nằm ở phía Nam sông
Hoàng Hà và phía Bắc sông Dương Tử (Trường Giang). Núi
Thiếu Thất cao chừng 860 trượng, phong cảnh tao nhã, địa
thế thuận tiện, chung quanh núi được bao phủ bởi rừng
thiết mộc, một loại cây rắn chắc như sắt, bền bỉ, quí
báu hiếm có, tương truyền do Ðạt Ma trồng ở Tung Sơn,
dùng làm binh khí và vật dụng cho chùa Thiếu Lâm. Ðỉnh
Thiếu Thất bằng phẳng, rộng rãi trên 5.000 trượng vuông,
là nơi tọa lạc của ngôi chùa Thiếu Lâm huyền thoại.
Gần
Thiếu Thất Sơn có Lộng Nguyệt Hồ, sâu khoảng bốn trượng,
nước trong suốt, vào những đêm trăng sáng, đứng trên
đỉnh Thiếu Thất nhìn xuống mặt hồ giống như một vầng
trăng lớn. Hồ là nơi tập luyện "thủy công" cho các môn
đồ Thiếu Lâm sau này.
Theo sử sách ghi lại, vào đời Hán, Minh Đế một hôm mơ
thấy vị thần người tỏa ánh vàng bay đi bay lại trong
cung, có người nói là đức Phật Tây phương, vua bèn cho
người sang Tây vực cầu Phật pháp, mời về hai vị cao tăng
Ấn Độ là Nhiếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, lập chùa Bạch
Mã ở Lạc Dương để hai người giảng kinh. Đây là ngôi chùa
Phật giáo đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Sau hai
người muốn tìm chốn núi cao rừng thẳm để tu luyện, bèn
xin tìm nơi thanh tĩnh lập chùa, và đặt chân lên miền
đất phúc Tung Sơn, xây dựng Đông Đô Đại Pháp Vương Tự.
Minh Đế sùng Phật, quan lại trong triều không kể cao
thấp đều phải đến đây nghe giảng kinh. Tại đây, hai vị
cao tăng đã dịch xong bộ Tứ thập nhị chương kinh
(Bộ kinh 42 chương, được Kim Dung mô tả là đối tượng
truy tìm của cả võ lâm và triều đình trong cuốn tiểu
thuyết võ hiệp nổi tiếng Lộc đình ký). Như vậy,
hạt giống Phật giáo từ Tây phương bay tới Trung Hoa đã
nảy mầm ngay trên đất Tung Sơn.
Thời Tam Quốc, cũng trên đất Tung Sơn xuất hiện vị tăng
nhân người Hán đầu tiên trong lịch sử, đó là Chu Sĩ Hạnh,
người đầu tiên sang Tây Phương cầu pháp, mang về bản
kinh Bát nhã bằng tiếng Phạn. Sách xưa chép
rằng, khi ông mất, đệ tử đem hỏa táng, đến lúc lửa cháy
tàn mà thân xác vẫn như còn nguyên; đến khi niệm chú thì
xương cốt mới tan ra.
Năm
Khai Hoàng thứ 20 đời Tùy Văn Đế, cao tăng Huyền Trang
ra đời ở thôn Trần Hà dưới chân núi Tung Sơn. Bấy giờ
các tông phái Phật giáo ở Trung Quốc đua nhau nổi lên,
Huyền Trang nhận thấy kinh điển các phái khác nhau,
tranh luận không dứt, mà xét cho cùng là do không có
kinh điển gốc để tra cứu, bèn vượt gian khổ sang Thiên
Trúc thỉnh kinh, mang về dịch trong 19 năm, tất cả 1331
quyển.
Truyền thuyết Đạt Ma
Theo ghi chép trong cổ tịch, Thiếu Lâm là một trong
những ngôi chùa cổ xưa nhất của Trung Quốc, được Hiếu
Văn đế triều Bắc Ngụy cho xây dựng năm Thái Hòa thứ 19
(495) làm nơi tu hành và thuyết giảng cho nhà sư Bạt Đà,
vị thần tăng người Ấn Ðộ đầu tiên đến Trung Hoa truyền
bá Phật pháp. Tuy nhiên, kungfu Thiếu Lâm lại gắn với
tên tuổi của Đạt Ma sư tổ, tức Bồ Đề Đạt Ma, người được
cho là tổ khai sơn của Thiền tông Trung Hoa.
Theo truyền thuyết, Bồ Đề Đạt Ma là con trai thứ ba của
vua Nam Thiên Trúc, vượt biển sang Trung Hoa truyền pháp.
Lương Vũ Đế chuộng đạo, mời Đạt Ma đến hội kiến, nhưng
không cùng chí hướng; Đạt Ma bứt một cọng lau ném xuống
sông, rồi đứng trên đó mà vượt Trường Giang vân du lên
miền Giang Bắc.
Năm
Hiếu Xương thứ ba, đời Bắc Ngụy (527), Bồ Đề Đạt Ma đến
Thiếu Lâm. Có nhà sư ở Tung Sơn tên là Thần Quang nghe
danh đến xin bái yết. Đạt Ma vẫn quay mặt vào bức tường,
không nói năng gì. Thần Quang không nản, nhủ rằng:
“Người xưa cầu đạo, đều phải trải qua gian nan thử thách,
chịu những điều người thường không chịu được”.
giữa đêm
tháng chạp tuyết lớn đầy trời, Thần Quang đứng chờ bất
động bên ngoài chùa, sáng ra tuyết ngập đến đầu gối. Đạt
Ma lúc ấy mới hỏi: “Ngươi đứng mãi trong tuyết để chờ gì
vậy?” Thần Quang khóc mà nói: “Chỉ mong được đại sư
truyền đạo”. Biết Đạt Ma còn e mình chỉ nhất thời kích
động, không thể lâu dài, Thần Quang liền rút đao tự chặt
đứt cánh tay trái, đặt trước mặt thầy. Đạt Ma bấy giờ
mới nhận làm đệ tử, đổi pháp danh là Huệ Khả. Trong chùa
Thiếu Lâm hiện nay còn Lập tuyết đình, xây dựng
dưới thời Đường, nhằm ghi lại sự tích Huệ Khả chặt tay
cầu đạo.
Tương truyền, trong thời gian ở Thiếu Lâm, thấy nhiều
nhà sư thể trạng yếu đuối, không chịu nổi khí lạnh của
núi rừng và thường hay ngủ gật trong lúc nghe thuyết
giảng, Đạt Ma bắt đầu nghĩ cách tu rèn thân thể và khắc
chế ngoại cảnh cho người học đạo. Kết quả sau 9 năm diện
bích tham thiền (ngồi thiền quay mặt vào tường) trong
động Trấn Vũ trên núi Thiếu Thất, ngài đã tìm ra tinh
yếu và đúc kết vào trong hai cuốn Dịch cân kinh
rèn luyện nội công và Tẩy tủy kinh rèn luyện
khí công.
Có
thuyết còn nói rằng, hai bộ Cửu dương chân kinh
và Cửu âm chân kinh cũng do Đạt Ma sáng tạo ra.
Trong khi đó, một số nghiên cứu lại nhận định, ngài đã
kết hợp các bài tập luyện thở Yoga và một số môn võ tay
không của Ấn Độ để tạo nên các bài tập rèn luyện tăng
cường sức khỏe phục vụ cho việc tu hành.
Theo truyền thuyết đạo Phật, sơ tổ Thiền tông Bồ Đề Đạt
Ma trong thời gian ở Trung Quốc đã dùng 4 quyển Lăng
già kinh để dạy đệ tử, sau truyền lại cho Huệ Khả,
từ đây, Thiền Tông Trung Quốc có thế hệ truyền pháp đầu
tiên.
Sau
khi Bồ Đề Đạt Ma viên tịch (536), các Đại sư Thiếu Lâm
tiếp tục tập luyện những phương thức ngài truyền lại.
Thiếu Lâm phái qua nhiều đời đã được các sư tăng xiển
dương, đúc kết và phát triển mạnh mẽ và dần trở thành
Bắc đẩu của các võ phái Trung Hoa. Việc hệ thống hóa võ
thuật Thiếu Lâm được cho là bắt đầu từ những võ quan về
hưu tu hành tại chùa.
Năm
Kiến Đức thứ 3 đời Bắc Chu, Vũ Đế cấm Phật, chùa bị phá.
Những năm Đại Tượng được xây dựng lại, đổi tên thành
chùa Bộ Cô, mời 120 người gồm Huệ Viễn, Hồng Tuần… đến
tu hành, gọi là “Bồ tát tăng”. Đời Tùy Phật giáo hưng
thịnh, sắc cho lấy lại tên Thiếu Lâm Tự, ban cấp đất đai,
thành ngôi chùa lớn bậc nhất ở phương Bắc.
13 võ tăng đời Đường
Đến
đời Đường (618 - 907), Lục tổ Huệ Năng đề ra chủ trương
đốn ngộ, cho rằng việc tu hành không cần phải tách rời
đời sống thực, “gánh nước chặt củi, đều là diệu đạo”.
Công phu Thiếu Lâm bắt nguồn chính từ sinh hoạt thường
ngày của tăng nhân. Tương truyền, đệ tử Huệ Quang khi
mới 12 tuổi có thể đứng trên miệng giếng sâu đá cầu 500
quả, chứng tỏ công phu không phải hạng tầm thường. Rất
nhiều chiêu thức của võ công Thiếu Lâm đều là sự phát
triển từ những động tác thường ngày như gánh nước, quét
sân, bổ củi… Công phu cao nhất thực ra lại có nguồn gốc
hết sức bình dị.
Đầu
đời Đường, Thiếu Lâm đã có một đội ngũ tăng lữ dũng mãnh,
thiện chiến. Khoảng năm Vũ Đức, 13 tăng nhân Thiếu Lâm
Tự tham gia trợ chiến giải vây trong cuộc chiến thảo
phạt Vương Thế Sung của Tần vương Lý Thế Dân, lập công
trạng lớn.
Lịch sử võ thuật Trung Quốc còn nhắc nhiều đến ba vị có
công lớn nhất từ Thiếu Lâm Tự là Chí Tháo, Huệ Dương và
Đàm Tông. Sau khi lên ngôi, Đường Thái Tông Lý Thế Dân
phong cho hòa thượng Đàm Tông làm Đại tướng quân, đồng
thời đặc chỉ cho phép các hòa thượng Thiếu Lâm được
luyện đội ngũ tăng binh, lại cho phép đại khai sát giới.
Các triều đại sau này vẫn theo lệ đó.
Hiện nay trong chùa còn tấm bia Đường Thái Tông tứ
Thiếu Lâm Tự chủ giáo ghi lại giai đoạn lịch sử này.
Đây chính là sự kiện lịch sử được dùng làm bối cảnh cho
bộ phim Thiếu Lâm Tự bản 1982 do Lý Liên Kiệt
thủ vai chính Giác Viễn,
học trò của Đàm Tông.
Cao
Tông và Võ Tắc Thiên cũng thường đến viếng chùa, phong
thưởng rất hậu. Được sự ủng hộ to lớn của triều đình,
Thiếu Lâm nhanh chóng phát triển thành Đại phật tự danh
trấn thiên hạ. Sau này các vị võ quan của triều đại nhà
Đường khi về hưu cũng thường đến chùa Thiếu Lâm để trao
đổi võ thuật, tạo nên một không khí giao lưu võ học trở
thành truyền thống của nhà chùa cho đến các đời sau.
Nhưng cho đến lúc này các bộ môn quyền thuật của Thiếu
Lâm vẫn chưa được coi trọng và phát triển đúng tầm cỡ,
vì lúc đó các phương pháp sử dụng binh khí vẫn còn thịnh
hành, và vũ khí phòng thân của các vị tăng nhân trong
chùa chíh là cây côn, mà chủ yếu là trường côn. Chùa
Thiếu Lâm lúc đó vẫn còn giữ nghiêm giới luật, cấm các
tăng nhân sử dụng vũ khí bằng kim loại sắc nhọn có thể
gây sát thương. Chính vì vậy, dễ lí giải vì sao côn pháp
Thiếu Lâm lại tiến rất nhanh đến trình độ điêu luyện và
tinh diệu. Các loại binh khí khác (thập bát ban binh
khí võ nghệ) chỉ được phát triển ở các dòng Nam
quyền và Bắc quyền Thiếu Lâm sau này mà thôi.
Khoảng năm Hội Xương, Vũ Tông cấm Phật, chùa bị phá đến
phân nửa, suy dần trong những năm cuối đời Đường và được
khôi phục dưới đời Tống.
Tống
Thái Tổ và truyền thuyết Hồng quyền
Lịch
sử chép rằng, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lúc thiếu
thời đã từng lên Thiếu Lâm học tập võ thuật, và trở
thành một quyền sư dạy võ thuật trong chùa Thiếu Lâm,
sáng tạo ra Tam thập lục
thế trường quyền (36 thế đánh của Thiếu Lâm
Trường Quyền) mà sau này gọi là bài Thiếu Lâm
Thái Tổ Trường Quyền.
Sử
liệu thời nhà Tống
cũng ghi nhận Triệu Khuông Dẫn thường sử dụng côn pháp
khi lâm trận, nghệ thuật côn pháp của ông điêu luyện và
hiệu quả không kém các đại tướng của ông với các loại
binh khí khác.
Tuy
nhiên có một truyền thuyết lưu truyền trong dân gian mà
Thiếu Lâm Tự cũng công nhận: bài Thái Tổ Trường
Quyền không phải do Triệu Khuông Dẫn tự soạn ra, mà
do ông nằm mơ được tiên nhân dạy cho 36 động tác căn bản
của Hồng Quyền,
rồi tỉnh dậy theo đó soạn lại. Tuy nhiên, những yếu tố
nhuốm màu truyền thuyết này không ngăn cản Hồng quyền
trở thành cơ sở để hình dung diện mạo võ công Thiếu Lâm
đời Tống.
Thời kì này, võ công Thiếu Lâm lại tiếp tục được nâng
cao, tăng nhân trong chùa có đến hơn 2000 người. Các nhà
sư bắt đầu tổng hợp những phương pháp chiến đấu cá nhân
bằng tay không, một thể thức đang được lưu truyền trong
dân gian lúc đó. Có thể kể ra một số bài quyền ra đời
trong thời kỳ này là Tiểu Hồng Quyền, Đại
Hồng Quyền, Thông Tý Quyền, Ngũ Hợp
Quyền và Khán Gia Quyền của hòa thượng
Phúc Cư.
Thiếu
Lâm
đại hội và 72 tuyệt kĩ
Năm
Hoàng Khánh thứ nhất (1312), Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt
mệnh cho hòa thượng Phúc Dụ trụ trì chùa Thiếu Lâm,
phong cho làm Tấn Quốc Công, thống lĩnh các chùa quán ở
Tung Sơn. Từ đó các cao tăng trong ngoài Trung nguyên tụ
hội về đây, thi triển võ công, đàm đạo Phật pháp, tăng
chúng thường trên dưới 2000 người.
Tỉ thí võ nghệ (Bích họa trên
tường Thiếu Lâm tự)
Tuy
nhiên, sự súc tích của các pho sách tổ sư để lại đã
khiến tăng chúng không đạt được sự thống nhất trong cách
hiểu, từ đó nảy sinh nhiều võ công mới lạ, có lúc rời xa
những nguyên lý căn bản. Từ cuối đời Tống, Thiếu Lâm
phái nổi lên phong trào sáng tạo mạnh mẽ chưa từng thấy,
người người, nhà nhà đều tự nhận mình là môn đồ Thiếu
Lâm chính tông. Hiện tượng này chắc chắn không đưa võ
công Thiếu Lâm đến đỉnh thịnh, mà dẫn đến tạp nhiễm và
suy thoái. Đó không phải điều các trưởng tràng Thiếu Lâm
trông đợi.
Mùa
thu năm 1333, vào đời vua Huệ Tông
nhà Nguyên, để
chỉnh lý nội bộ Thiếu Lâm phái đã phát triển vượt ngoài
tầm kiểm soát, Đại hội võ thuật Thiếu Lâm được mở tại
Tàng Kinh Các. Đại hội triệu tập 700 trưởng tràng các
chi nhánh, các tân môn, cựu môn, các quan nhân nguyên là
môn đồ Thiếu Lâm ra xuất chánh, chủ trì đại
hội là thiền sư phương trượng đời thứ 12 Nguyên Hạnh và
4 vị trưởng lão tiền bối trước đó đã ẩn cư trên 20 năm
trong núi sâu.
Nguyên Nhiên, bấy
giờ là một môn đồ sơ đẳng của Thiếu Lâm, đưa ra ý kiến
khởi đầu các môn đồ phải tập những võ công căn bản, sau
đó tùy sở trường của từng người thì luyện tập các môn
mình thấy phù hợp. Ý kiến được các sư trưởng và toàn thể
Đại hội nhất trí thông qua.
Sau
khi tổng kết, xem xét hàng ngàn phương pháp, cách thức,
bí quyết tu luyện võ công, gồm khinh công, thủy công,
nhuyễn công, ngạnh công, nội công, ngoại công… được các
trường tràng, các chi nhánh và các cao thủ phát triển
trên nền tảng võ học Thiếu Lâm phái, Đại hội đã tiến
hành sắp xếp, phân loại, và tổng hợp thành Thiếu Lâm
thất thập nhị huyền công - 72 tuyệt kỹ võ học Thiếu
Lâm Tự, bao quát toàn diện những hệ thống võ công từ
nguyên khởi đến cả những thời điểm hoàng kim nhất của võ
phái, và dù sau này có một thiên tài võ học tìm thêm
được các công phu nào đó và tuyên bố rằng đó là một hệ
thống chưa từng có, thì cũng vẫn có thể xếp vào một
trong 72 môn loại đã được Đại hội ấn định.
Cuối đời Nguyên, thiên hạ đại loạn, quân Khăn đỏ kéo đến
Thiếu Lâm, tăng chúng tản đi khắp nơi. Như mỗi lần Trung
nguyên rơi vào vòng binh hỏa, kungfu Thiếu Lâm lại có
dịp xuất thế lập công, và đó cũng là tiền đề cho thời kì
cực thịnh của võ công Thiếu Lâm dưới đời Minh.